
Tuệ Tĩnh
Thiền sư (chữ Hán: 慧靜禪師, 1330 – 1400[1]) là một lang y sống ở
giai đoạn cuối thời Trần. Ông được
hậu thế suy tôn là
tiên thánh của ngành thuốc Nam. Tại Hải Dương, còn đền thờ ông ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải Triều làng Yên Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, Và khu B trường
Đại học kỹ thuật y tế Hải Dương có tượng Tuệ Tĩnh. Câu đối thờ ông ở đền Biaviết, dịch nghĩa như sau:
Mở rộng phương Tiên, công
tế thế cao bằng Thái lĩnh
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm giang
Tiểu sử Sửa đổiTuệ Tĩnh vốn có nguyên danh là Nguyễn Bá Tĩnh (阮伯靜), tự Linh Đàm (靈潭), hiệu Tráng Tử Vô Dật (壯子無逸), Hồng Nghĩa (紅義), quán tại hương Xưa, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương).
Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được các
nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu Thái
học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông, nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa đi tu lấy
pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người.
Năm 55 tuổi (1385), với
trí tuệ uyên bác trong ngành y thuật của mình, Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều đình nhà Minh. Sang
Trung Quốc, ông vẫn làm thuốc,
nổi tiếng, được vua Minh phong là
Đại y Thiền sư, ông qua đời tại Giang Nam,
Trung Quốc nhưng không rõ năm nào.
Tuệ tĩnh
xót thương cho số phận của mình và luôn đau đáu nỗi niềm một ngày được quay lại quê hương,
thoát khỏi cảnh đất khách quê người
thể hiện qua việc ông đã khóc trong lễ nhậm chức của mình tại triều đình nhà Minh và cho tới ngày nay, trên bia mộ của ông vẫn còn dòng chữ "Ai về nước Nam cho tôi về với".
Năm 1690
tiến sĩ Nguyễn
Danh Nho đi sứ sang Trung Hoa,
tình cờ thấy mộ Tuệ Tĩnh,
nhận ra là người cùng làng.
Cảm động với lời nhắn gửi thiết tha của
vị danh y,
tiến sĩ Nguyễn
Danh Nho đã sao chép bia mộ và tạc khắc bia đá mang về quê Hải Dương bây giờ.
Công trình y dược Sửa đổiNhững năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú nghề thuốc: trồng cây thuốc, sưu tầm
kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các
tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc
cổ truyền trong bộ sách
giá trị là bộ Nam dược thần hiệu chia làm 10 khoa.
Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư (2 quyển)
biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Nôm Đường luật, và bài "Phú thuốc Nam" 630 vị cũng bằng chữ Nôm. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nếu quả thực đó là
tác phẩm của Tuệ Tĩnh thì chúng không chỉ
giá trị trong y học mà còn là
tác phẩm quan trọng
trong lịch sử văn học bởi vì đây là các
tác phẩm ở thời kì đầu của
văn học chữ Nôm.
Từ bao đời nay, giới y học
Việt Nam và
nhân dân đều
công nhận Tuệ Tĩnh có
công lao to lớn trong việc
xây dựng một
quan điểm y học
độc lập,
tự chủ, sát với
thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: "Nam dược trị Nam nhân"
thể hiện quan điểm đầy
biện chứng về mối quan hệ
mật thiết giữa
con người với môi trường sống
xung quanh.
Quan điểm ấy dẫn dắt ông
lên ngôi vị cao nhất của nền y học
cổ truyền Việt Nam: Ông Thánh thuốc Nam! Trong trước tác của mình, ông không rập khuôn theo các trước tác của các đời trước, Ông không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên! Ông cũng phê phán
tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào
phù chú mà không tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều
phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông, v.v.
Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở
vị trí một thầy thuốc chữa bệnh, ông còn tự mình
truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh trong nhà chùa và trong làng xóm. Có
tài liệu cho biết, trong 30 năm
hoạt động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã
xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở
mọi người chú ý
nguyên nhân gây bệnh, tìm
biện pháp phòng bệnh
tích cực. Tuệ Tĩnh
nhấn mạnh tác dụng việc
rèn luyện thân thể và
sinh hoạt điều độ. Ông nêu
phương pháp dưỡng sinh
tóm tắt trong 14 chữ:
Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình
Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho
gia súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc của
Việt Nam.
Danh ngôn Sửa đổiNam dược trị
Nam nhânAi về nước Nam cho tôi về với[2]