TIỂU SỬ
TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU
(1918 – 2012)
Hòa thượng họ Đinh, húy Văn Nam, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, Xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và
thân mẫu là cụ bà LêThị Đạt.
Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em,
Hòa thượng là con trai thứ tư trong
gia đình. Vốn
sinh trưởng trong gia đìnhvọng tộc
Nho gia, thân sinh của
Hòa thượng đỗ
tiến sĩ Hoàng Giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu
Duy Tân thứ 7), nhờ
ảnh hưởng sâu đậm nền
giáo dục của cụ ông từ bé.
Vì vậy,
Hòa thượng rất
cần mẫn đèn sách, chăm chỉ
học hành, trí tuệphát triển sớm.
Năm 1939,
Hòa thượng đỗ bằng Cao đẳng Tiểu học Đông Dương; năm 1940
Hòa thượng đỗ Tú tài
Toàn phần tại trường Khải Định – Huế (nay là trường Quốc Học); và cùng
thời gian này, Ngài được bổ làm
Thư ký tòa Khâm sứ, tỉnh
Thừa Thiên. Sau một năm làm việc tại đây,
Hòa thượng thấy nhiều bất công trong khâu
xét xử, người dân bị xử ép oan sai mà sức mình không xoay chuyển gì được nên đã
xin thôi việc.
Từ đó,
Hòa thượng tham gia tích cực vào các
phong trào thanh niên
Phật giáo, những mong góp tài sức cho việc
xây dựng xã hội lành mạnh, cũng như phát huy
chánh pháp mà ngài
tin tưởng. Cuối thập niên 1930 đến đầu thập niên 1940,
Hòa thượng là một trong những người
sáng lập Đoàn
Phật học Đức dục và
Gia đình Phật hóa phổ (tên cũ của Tổ chức
Gia đình Phật tử Việt Nam sau này).
Đến năm 1946,
nhân duyên học đạo đầy đủ, Ngài
cầu pháp với
Hòa thượng húy thượng Trừng hạ Thông, tự Chơn Thường hiệu Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất
Tăng thống GHPGVNTN) tại Tổ đình
Tường Vân, thuộc làng Hạ I, xã Thủy Xuân, thành phố Huế và được Bổn sư
ban cho pháp danh là
Tâm Trí. Năm 1949 (Kỷ Sửu) Ngài được
Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Tam Đàncụ túc và
Hòa thượng Bổn sư
ban cho pháp tự Minh Châu,
pháp hiệu Viên Dung.
Sau khi đã nhập vào hàng Chúng
trung tôn,
Hòa thượng vẫn không ngừng
sinh hoạt với Hội
Phật học Trung phần, chuyên cầndiễn giảng
Phật pháp khắp các chùa Hội, hướng dẫn các thanh,
thiếu niên của
Gia đình Phật tử, đóng góp bài viết cho tạp
chí Viên Âm,
Từ Quang,
Liên Hoa,… Chủ bút tạp chí
Tư Tưởng Vạn Hạnh. Năm 1951, khi Hội
thành lập trường Trung học Bồ Đềđầu tiên ở Huế thì
Hòa thượng được mời giữ chức Hiệu trưởng.
Từ năm 1952 đến năm 1961,
Hòa Thượng xuất dương du học và đậu bằng
Tiến sĩ Pàli và
Phật Học tại
Đại Học Phật GiáoNalanda,
Ấn Độ. Sau 14 năm du học ở nước ngoài,
Hòa Thượng trở lại quê nhà và giữ chức vụ Viện Trưởng Viện
Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1964 đến năm 1975, chuyên lo
sự nghiệp giáo dục và
phiên dịch Kinh Tạng Pàli, hầu đóng góp
tích cực vào công cuộc
đào tạo Tăng tài cho PGVN.
Khi Viện
Đại Học Vạn Hạnh bị Nhà nước CSVN chiếm dụng năm 1975,
Hòa Thượng sử dụng cơ sở Phân khoa Khoa Học
Ứng Dụng tại Phú Nhuận
thành lập Viện
Phật Học Vạn Hạnh (1976). Những năm
tiếp theo đó,
Hòa thượng tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (năm 1981),
tâm nguyện của
Hòa thượng luôn đặt nơi việc
giáo dục,
đào tạo nhân tài cho PGVN, nên đã
tuần tự thành lập và
đảm nhận làm Hiệu trưởng, Viện trưởng các Trường Cao Cấp
Phật Học Việt Nam (1981) cơ sở I tại Hà Nội; Trường Cao Cấp
Phật Học Việt Nam, cơ sở II tại Sài-gòn (1984); Viện
Nghiên Cứu Phật Học VN (1989) và
Hội Đồng Phiên Dịch Đại Tạng Kinh VN (1991).
Dù bận rộn nhiều công
tác Phật sự Giáo hội và
giáo dục Tăng Ni,
Hòa Thượng vẫn dành
thời gian nhất định để dịch thuật và
biên soạn kinh sách để
truyền bá lời Phật dạy. Tính
đến nay có trên 30
tác phẩm do
Hòa Thượng dịch và
biên soạn, các
tác phẩm và dịch phẩm chính
gồm có:
* Những dịch phẩm, Kinh Tạng Pàli:
- Kinh Trung Bộ
- Kinh Tăng Chi Bộ
- Kinh Tiểu Bộ
- Kinh Trường Bộ
- Kinh Tương Ưng Bộ
a.
Kinh Pháp Cúb. Kinh
Phật Tự Thuyết
c.
Kinh Phật Thuyết Như Vậyd.
Kinh Tậpe.
Trưởng Lão Tăng Kệf.
Trưởng Lão Ni Kệg. Bổn Sanh (2 tập)
* Dịch từ Abhidhamma:–
Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhamma Atthasangaha)
* Tác phẩm tiếng Anh của Hòa Thượng :
- Hsuan T'sang, The Pilgrim and Scholar (Huyền Trang nhà Chiêm bái và học giả – NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
- Fa-Hsien, The Unassuming Pilgrim (Pháp Hiển nhà Chiêm bái khiêm tốn – NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
- Milindapannha And Ngasenabhikhustra – A comparative study (Cư sĩ Nguyên Tâm – Trần Phương Lan dịch ra Việt văn)
- The Chinaese Madhyama gama and The Pli Majjhima Nikaya (A comparative study) – Luận án Tiến sĩ Phật học (NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
- Some Teachings Of Lord Buddha On Peace, Harmony And Humadignity
✽ Sách viết bằng tiếng Việt:
- Phật pháp (đồng tác giả)
- Đường về xứ Phật (đồng tác giả)
- Những ngày và những lời dạy cuối cùng của đức Phật
- Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (dịch)
- Sách dạy Pli
- Dàn bài Kinh Trung bộ (chưa in)
- Toát yếu Kinh Trường bộ (chưa in)
- Toát yếu Kinh Trung bộ (chưa in)
- Chữ Hiếu trong đạo Phật (đồng tác giả)
- Hành thiền
- Lịch sử đức Phật Thích ca
- Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi
- Chánh pháp và hạnh phúc
- Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người (2002)
- Những mẫu chuyện đạo (2004)
- Đức Phật nhà đại giáo dục (2004)
- Đức Phật của chúng ta (2005)
- Mở từ mở ra, khổ đau khép lại (2006)
- Những gì đức Phật đã dạy (2007)
- Hiểu và hành Chánh pháp (2008)
- Chiến thắng ác ma (2009)
Trên đường phát triển nền
Phật học VN,
Hòa Thượng luôn chủ trương
truyền bá tư tưởng Phật học của ba
bộ phái Phật Giáolớn:
Thượng Tọa Bộ,
Nhất Thiết Hữu Bộ và
Đại Thừa, và thường nghĩ đến phần
giáo lý Phật Giáo căn bản chung cho các
bộ phái để
thiết lập cơ sở thống nhất về mặt
tư tưởng Phật học.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 01/9/2012, nhằm ngày 16/7 Nhâm Thìn, Ngài thâu thần
tịch diệt tại
Thiền viện Vạn Hạnh, trụ thế 95 năm, với 64
hạ lạp.
Cuộc đời và
Đạo nghiệp của Ngài là tấm
gương sáng của một bậc
Cao Tăng Thạc Đức, hi hiến
trọn đời mình cho sự nghiệpgiáo
dục Phật Giáo,
dịch Kinh, viết sách, góp sức cho
Pháp Luân thường chuyển,
hoằng pháp lợi sanh, cho nhân sanh được
an lành,
hạnh phúc,
hướng thượng,
giải thoát. Sự ra đi của Ngài để lại bao nhiêu niềm kính
tiếc của Phật giáo đồ trong nước lẫn hải ngoại.
Thành kính cầu nguyện Giác Linh Cố
Hòa Thượng cao đăng
Phật quốc và sớm hồi nhập
Ta Bà, để
tiếp tục công cuộc
hoằng pháp lợi sinh.
Nam mô Từ
Lâm Tế Chánh Tông,
Tứ Thập Tam thế, Xuân Kinh
Tường Vân Tổ Đình
Trú Trì,
Vạn Hạnh Thiền Viện Khai Sơn, húy
thượng Tâm hạ Trí,
tự Minh Châu, hiệu
Viên Dung Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ
chứng giám.